TRANG CHỦ » BỆNH NỘI KHOA » 5_BỆNH VỀ PHẾ_HO
Chữa Suyễn Bằng Đông Y

http://a8.vietbao.vn/images/vn888/hot/v2012/20120804-111114-1-mon-an-bai-thuoc-phong-tri-dau-thuoc-vi-67758-2.jpeg    Suyễn là loại bệnh thở gấp, nặng có thể há mồm, trợn mắt mà thở, nằm ngồi không được. Bàn về suyễn Nội kinh nói “Suyễn có tiếng” và “Suyễn khan”. Sách Kim quỹ yếu lược nói khí bốc ngược (thở ngược) khí bốc gây ho hoặc ho làm khí bốc (khí ngịch). Thở như tiếng gà, sau này sách y học chính truyền chia làm 2 loại: Suyễn và háo. Suyễn thì thở không có tiếng, háo thì thở có tiếng. Tuy nhiên trên lâm sàng cũng khó khăn phân biệt, ví dụ nhẹ là suyễn, nặng là háo. Tóm lại bệnh này thuộc về hệ hô hấp. Trên lâm sàng bệnh này thường dẫn đến viêm phế quản, sưng phổi, bệnh tim, ung thư phổi, phổi kết hạch v.v... trong thể bệnh cấp.

Nguyên nhân và bệnh lý:

Bệnh suyễn chủ yếu là do cảm nhiễm ngoại tà cùng với đờm trọc ở bên trong và phế thận hư yếu gây nên do mấy nguyên nhân chính sau đây:

a) Ngoại tà xâm nhập (tà khí bên ngoài xâm nhập vào hoặc mới cảm nhiễm ngoại tà)

Phong hàn và phong nhiệt là hai loại thường thấy. Phong hàn phạm về phế khiến phế khí bị ủng tắc, thăng giáng thất thường đi ngược lên thành suyễn. Phong nhiệt từ đường hô hấp rồi vào phế hoặc phong hàn bị uất hoá thành nhiệt không tiết ra được gây nên sưng phổi, khí quản bị ảnh hưởng cũng gây thành suyễn.

b) Đờm trọc nội thịnh: (Đờm tụ nhiều ở trong).

Do ăn uống không điều độ hoặc bừa bãi làm trở ngại đến công năng vận hoá của tỳ, tích trệ thành đờm hoặc người vốn có đờm thấp tích trệ đi ngược lên gây thành đờm ủng ở phế trở ngại khí cơ và sự thăng giáng của khí cũng gây thành suyễn, hoặc do phế nhiệt nung nấu tân dịch thành đờm, đờm hoả cũng gây trở ngại thành suyễn.

c) Phế thận hư nhược: Do ho lâu làm phế yếu hoặc do ốm lâu làm yếu phế, làm trở ngại phế khí và đường hô hấp gây nên suyễn. Hoặc thận hư yếu không nhuận được phế, không nạp được khí gây nên khí suyễn.

Bệnh suyễn chủ yếu ở phế, có quan hệ đến thận, nghiêm trọng thì ảnh hưởng đến tim. Phế chủ khí, khí chủ thăng giáng, khí thuận là bình thường, khí đi ngược lên là gây suyễn.

Sách nội kinh nói: “mọi thứ ho đầy tức thở đều thuộc ở phế” Lại nói: thận chủ nạp khí, phế chủ xuất khí, thận hư thì không xuất nạp được khí. Ngoài ra tâm phế suy yếu lâu ngày phế khí thiếu, liên lụy đến tâm cũng gây nên suyễn.

Biện chứng luận trị:

Bệnh suyễn cần phân rõ hư thực. Trong cảnh nhạc toàn thư nói: (Thực suyễn là bệnh có ngoại tà xâm nhập là khí tà thực hư, suyễn là bệnh không có tà là chính khí hư, do đó thực suyễn là bệnh cấp, thở gấp và nạp, có đờm, có tiếng, là bệnh ở phế. Cách chữa nên tán tà lợi khí, hư suyễn là thuộc bệnh mãn chữa lâu, hơi thở ngắn và yếu khi cử động mạch thở nhiều lúc tăng lúc giảm.

Cách chữa: Thuận khí, nạp khí và bồi bổ phế thận.

A – THỰC SUYỄN:

1) Do phong hàn phạm phế:

Có các triệu chứng thở gấp, tức ngực, ho có đờm, lúc mới thường sợ lạnh, đau đầu, đau mình không có mồ hôi, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù.

Phân tích: phế chủ hô hấp, phế chủ bì mao, khi bị phong tà cảm nhiễm, bế tắc bên ngoài, uất phế khí làm khí không thăng giáng nên gây ho, suyễn, tức ngực. Do phong hàn bế ở bên ngoài vào kinh lạc nên sợ lạnh, đau đầu, không ra được mồ hôi, mạch phù cũng là bệnh ở biểu.

Cách chữa: Tán hàn, thông phế khí, định suyễn.

Thuốc dùng bài:

TAM CAO THANG gia giảm:

(380 bài thuốc đông y hiệu nghiệm)

Ma hoàng                 12g

Hạnh nhân                12g

Cam thảo                   4g

Tác dụng: trị ngoại cảm phong hàn ho suyễn

Trong bài dùng ma hoàng, hạnh nhân, cam thảo để thông phế tán hàn, hoá đờm, định suyễn, gia tiền hồ, quất bì để thuận khí, hoá đờm.

2)Phong nhiệt phạm phế:

Có các triệu chứng thở gấp, khí thô, nghẹt mũi, ho, đờm vàng đặc, miệng khô, khát nước, buồn bực, ra mồ hôi, nặng thì phát sốt, mặt đỏ, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch phù sác,

Phân tích: Có các triệu chứng trên là do phong nhiệt phạm vào phế, hoặc phong hàn uất hoá thành nhiệt, phong nhiệt nung nấu gây nên.

Cách chữa: Thông phế, thanh nhiệt định suyễn.

Thuốc dùng bài:

MA HẠNH THẠCH CAM THANG gia giảm:

(Thương hàn luận)

Thành phần:

Ma hoàng                 12g

Chích thảo                 4g

Hạnh nhân               12g

Thạch cao               12g ( sắc trước)

Cách dùng: Sắc uống ngày 1 - 2 thang.

Tác dụng: Tuyên phế, thanh nhiệt, gíang khí, bình suyễn.

Giải thích bài thuốc:

+Thạch cao để hỗ trợ Ma hoàng chỉ khái, bình suyễn.

+Cam thảo điều hòa các vị thuốc.

+Trong bài thuốc 4 vị thuốc phối hợp có thể vừa giải biểu vừa tuyên thông phế khí vừa thanh lý nhiệt, cho nên có tác dụng tốt đối với bệnh hen suyễn có sốt.

Trong bài thuốc ma hoàng, thạch cao, hạnh nhân để thông phế tán tà, định suyễn. Hạnh nhân với cam thảo để hoá đờm, chữa ho, nếu phế nhiệt nhiều gia tang bì, hoàng cầm để thanh phế tiết nhiệt.

3) Đờm trở ngại phế:

Có các triệu chứng thở gấp, ho, đờm nhiều nặng thì ho đờm vướng sặc, hông ngực buồn tức, miệng nhạt, ăn không biết ngon, rêu lưỡi trắng nhợt, mạch hoạt.

Phân tích: Do đờm trọc (Đờm đục và lỏng) ủng lên phế, khiến trở ngại khí quản, phế khí không thông giáng xuống được mà gây nên ho thở đờm nhiều. Đờm thấp ủng ở tỳ vị nên buồn bực, miệng nhạt, ăn không biết ngon, lưỡi nhạt, mạch hoạt cũng là biểu hiện của đờm trọc.

Cách chữa: tiêu đờm, giáng khí, định suyễn.

Thuốc dùng bài sau:

 TAM TỬ DƯỠNG THÂN THANG gia giảm:

(Hàn thi y thông)

Thành phần:

Tô tử                        12g

La bạc tử                  12g

Bạch giới tử               8g

Cách dùng: sắc nước uống, mỗi ngày 1 thang sắc uống nước chia 2 lần.

Tác dụng: Giáng khí, hóa đàm, bình suyễn.

Giải thích:

Bài thuốc dùng trị chứng ho, khó thở, đờm nhiều, ngực tức, ăn kém, rêu lưỡi dày, mạch hoạt. Trong bài:

Tô tử giáng khí hóa đàm, Bạch giới tử ôn phế hóa đàm, La bạc tử tiêu thực hóa đàm: đều là những vị thuốc trị ho đờm nhiều.

Có thể phối hợp dùng với bài sau:

 NHỊ TRẦN THANG gia giảm:

(Hòa tể cục phương )

Bán hạ                      12g

Trần bì                      12g

Phục linh                  12g

Cam thảo                   4g

Cách dùng: sắc nước uống.

Tác dụng: táo thấp hóa đàm, lý khí hòa trung.

Giải thích bài thuốc:

Bài thuốc dùng trong các trường hợp ăn phải chất sống lạnh, chức năng tỳ vị bị rối loạn, thấp sinh đàm. Trong bài:

Bán hạ cay táo ôn có tác dụng táo thấp hóa đàm, giáng nghịch cầm nôn, tiêu tán tích kết là chủ dược.

Trần bì lý khí hóa đàm.

Trong bài dùng trần bì, bán hạ, bạch linh để hóa đờm; tô tử, bạch giới, la bặc tử hạ khí, táo thấp. Nếu đờm thấp hoá nhiệt hoặc vốn có đờm hoá nặng mà ho, đờm nhiều vàng đặc, thở gấp, cách chữa nên tiêu thanh hoả, dùng bài tả bạch tán (144) gia tri mẫu, qua lâu. Nếu đờm ủng nhiều không thể nằm được gia đình lịch để tả phế trục đờm.

B) HƯ SUYỄN:

1. Phế hư:

Thở gấp, ngắn hơi, tiếng nói mệt mỏi, ho nhẹ, ra mồ hôi, sợ gió, họng khan rát, miệng khô lưỡi đỏ nhợt, mạch nhuyễn nhược.

Phân tích: Phế chủ khí, phế hư nên khí yếu, thở ngắn, đoản hơi, cũng do phế yếu khí hư nên tiếng nói mệt mỏi, vệ khí không vững nên miệng khô, hầu họng rát v.v..

Cách chữa: Dưỡng phế, định suyễn

Thuốc dùng bài:

 SINH MẠCH TÁN gia giảm:

(Nội ngoại thương biện hoặc luận)

Thành phần:

Nhân sâm                12g

Mạch môn                12g

Ngũ vị tử                     8g

Cách dùng: sắc nước uống.

Tác dụng: Ích khí liễm hãn, dưỡng âm sinh tân.

Giải thích bài thuốc:

Bài thuốc này chủ yếu chữa chứng thương thử nhiệt tân khí đều bị tổn thương nên dùng phép " Ích khí sinh tân" để chữa.

Trong bài:

Nhân sâm hoặc Đảng sâm có tác dụng bổ ích khí sinh tân là chủ dược.

Mạch môn dưỡng âm sinh tân đồng thời có tác dụng thanh phế.

Ngũ vị tử có tác dụng liễm phế chỉ hãn hợp với Mạch môn tăng thêm tác dụng sinh tân.

Ba vị thuốc hợp lại, trong đó dùng 1 bổ 1 thanh 1 liễm nên có tác dụng ích khí liễm hãn, dưỡng âm sinh tân tốt.

Để thu nạp phế khí gia ngọc trúc, bối mẫu để nhuận phế hoá đờm. Nếu nôn ra đờm rãi bỏ mạch môn gia hoàng kỳ, quê chi, cam thảo để ôn bổ phế khí.

2. Thận hư:

Do ho suyễn lâu ngày, hô hấp yếu, khi cử động mạnh thì thở nhiều thể tạng gầy yếu, ra mồ hôi, chân tay lạnh sắc mặt xanh, có khi tay chân và mặt phù nhẹ, tiểu tiện ít, hay mơ màng giật thót, lưỡi nhợt mạch trầm tế.

Phân tích: Do ho suyễn lâu ngày, cơ thể suy nhược, thận yếu, thận là gốc của khí, thận yếu không thu nạp được khí nên thở ngắn, thở nông, cử động mạnh là thở nhiều, vệ khí yếu nên sợ gió, ra mồ hôi. Dương khí yếu nên chân tay lạnh. Mạch trầm tế cũng do dương khí suy nhược.

Cách chữa: Bổ thận nạp khí.

Thuốc dùng bài:

 THẬN KHÍ HOÀN gia giảm:

(Kim quĩ yếu lược)

Thành phần:

Can địa hoàng          32g

Sơn thù                    16g

Bạch linh                  12g

Sơn dược                16g

Trạch tả                    12g

Đơn bì                      12g

Phụ tử chế                 4g

Quế chi                      4g

Cách dùng: Theo tỷ lệ trên, tất cả tán bột mịn trộn đều luyện mật làm hoàn. Mỗi lần uống 8 - 12g. Ngày 1 - 2 lần, với nước sôi nóng hoặc gia thêm tí muối. Có thể làm thuốc thang sắc uống.

Tác dụng: Ôn bổ thận dương.

Giải thích bài thuốc:

Đây là bài thuốc chính chữa chứng thận dương hư. Trong bài:

+Phụ tử, Quế chi ôn bổ thận dương là chủ dược.

Thêm bài "Lục vị" tư bổ thận âm để điều hòa âm dương làm cho thận khí được sung túc thì các triệu chứng do thận dương hư gây nên như đau lưng, gối mỏi, phía nửa người dưới lạnh, tiểu tiện nhiều lần hoặc tiểu són, hoặc chứng hoạt tinh, di niệu tự khỏi.

  Nếu dương hư, hay sợ sệt giật thót, mặt và chân tay phù nhẹ dùng bài Chân vũ thang CHÂN VŨ THANG gia giảm:

(Thương hàn luận )

Thành phần:

Thục Phụ tử               8g

Phục linh                  12g

Sinh khương            12g

Bạch truật                12g

Bạch thược              16g

Cách dùng: sắc nước uống, chia làm 2 - 3 lần trong ngày.

Tác dụng: dưỡng dương, lợi thủy.

Giải thích bài thuốc:

+Phụ tử có tác dụng ôn thận tráng dương, khu hàn là chủ dược.

+Bạch linh, Bạch truật kiện tỳ, lợi thủy.

+Sinh khương ôn tán thủy khí tăng thêm tác dụng của Linh Truật.

Thược dược có tác dụng hòa vinh, chỉ thống, tính toan hàn, liễm âm, điều hòa được tính cay nóng của các vị thuốc trên. Nếu thận âm hư, miệng khô họng rát, khí ho thở nhiều mặt đỏ, mạch tế  nên dùng  bài sau:

BÀI THẤT VỊ ĐÔ KHÍ HOÀN phối hợp Bài sinh mạch tán gồm có vị:

(Trung Quốc Y Học Đại Từ Điển)

 Sơn thù nhục          14g

 Sơn dược               16g

 Phục linh                 14g

 Đan bì                      14g

Trạch tả                    12g

 Ngũ vị                      10g

 Nhân sâm               12g

 Mạch môn               12g

Cách dùng: tán làm hoàn hoặc sắc uống.

Tác dụng: trị suyển do thận âm hư, họng đau,

 để tư âm nạp khí, không nên dùng các vị cay nóng.

 Bệnh suyễn chia làm 2 loại hư thực như trên; song trên lâm sàng cũng thường thấy cả 2 loại hư thực như trên một bệnh nhân như ho thở, đờm nhiều, cử động mạnh thở tăng, chân tay lạnh ra mồ hôi, tim giật thót, mạch trầm tế là đờm khí động ở trên, thậm chí khí hư ở dưới, là bệnh thượng thực hạ hư, cách chữa nên quan tâm cả gốc và ngọn, dùng bài TÔ TỬ GIÁNG KHÍ THANG gồm có vị: Tô tử, trần bì, bán hạ, đương quy, tiền hồ, hậu phác, nhục quế, chích cam thảo, sinh khương.

Tác dụng: giáng khí hoá đờm và bổ thận. Bệnh trầm trọng thường là tâm, phế thận đều suy kiệt.

Nên dẫn đến thở gấp, đổ mồ hôi, chân tay lạnh là dương khí gần thoát phải dùng gấp bài SÂM PHỤ THANG hoặc bài HẮC DƯƠNG ĐƠN gồm có vị: Hắc tích, lưu hoàng, xuyên luyện tử, hồ lô ba, mộc hương, phụ tử nướng, nhục đậu khấu, bổ cốt chỉ, dương khởi thạch, trầm hương, hồi hương, nhục quế.Tác dụng: để hội dương cứu thoát, nạp khí về thận.

Các Bài Viết Khác
LƯƠNG Y MINH PHÚC
BẢN ĐỒ PHÒNG KHÁM
Phóng To Bản Đồ
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Đọc Sách Online
Tác giả: Lương Y Minh Phúc
Nhà xuất bản Y Học 2013
Số trang: 600 trang
Giá bán: 300.000 đ
Có bán tại hiệu sách hoặc điện thoại số 0903051388 gửi sách tận nơi.
GIỜ LÀM VIỆC
Sáng: Từ 7 giờ 30 đến 11 giờ
Chiều: Từ 16 giờ 30 đến 21 giờ
Chiều Thứ 7 và Chủ Nhật nghỉ.
Liên hệ: 0938895850
Vui lòng để lại tin nhắn khi máy bận.
THỐNG KÊ TRUY CẬP